Khái quát Hệ_nhị_phân_giới

Thuật ngữ "hệ nhị phân giới" mô tả một hệ thống trong xã hội chỉ định những thành viên của xã hội ấy được phân vào một trong hai nhóm của vai trò giới, bản dạng giới và những đặc điểm giới tính dựa trên bộ phận sinh dục.[6] Trong trường hợp những người sinh ra với những cơ quan nằm ngoài hệ thống phân loại (tức chỉ những người liên giới tính), họ sẽ bị ép buộc phải trải qua phẫu thuật định hình giới tính.[7][8] Người liên giới tính thường nhận diện bản thân có giới tính là đực hoặc cái; tuy nhiên, bản dạng giới của họ có thể sẽ khác. Hệ nhị phân sẽ tập trung vào danh tính của một người dựa vào những đặc điểm sinh học của họ.[9]

Vai trò giới là một nhân tố quan trọng của hệ nhị phân giới. Vai trò giới định hình và ràng buộc những trải nghiệm sống của một người, có tác động tới các cách thể hiện của một người, từ sự lựa chọn cách ăn mặc và quần áo tới nghề nghiệp.[10][11] Hầu hết mọi người sẽ có những đặc điểm tâm lý thuộc về tính nam hoặc tính nữ.[12][13] Những vai trò giới truyền thống bị ảnh hưởng bởi truyền thông, tôn giáo, giáo dục, hệ thống chính trị, hệ thống văn hóa và hệ thống xã hội.[14] Những tôn giáo lớn như Hồi giáoKitô giáo đóng vai trò như một bộ máy chính quyền cho vai trò giới. Ví dụ, đạo Hồi đã dạy rằng người mẹ là người chăm sóc chủ yếu cho những đứa con của họ và nhà thờ Công giáo chỉ phong chức cho người hợp giới nam làm mục sư. Đạo Kitô giáo cũng ủng hộ sự tuân thủ theo hệ nhị phân theo Sách Sáng Thế trong Kinh Thánh, trong đó đã tuyên bố ở mục thứ 27 rằng "Chúa tạo nên người đàn ông theo hình ảnh người Ngài; theo hình ảnh của Chúa, Ngài đã tạo ra anh ấy; đàn ông và đàn bà, Ngài đã tạo ra họ".[15]

Trong tiếng Anh, một số danh từ (ví dụ: boy - con trai), kính ngữ (ví dụ: Miss), nghề nghiệp (ví dụ: actress - nữ diễn viên) và danh xưng (ví dụ: she/her - cô ấy, he/him - anh ấy) đều có giới, và chúng thuộc vào hệ nhị phân nam-nữ. Trẻ em được lớn lên trong những môi trường nói tiếng Anh (và các ngôn ngữ gán giới khác) đều coi giới là một hệ thống nhị phân.[16] Nhiều nghiên cứu đã phát hiện rằng đối với trẻ em học tiếng Anh là ngôn ngữ đầu tiên ở Hoa Kỳ, việc sử dụng hệ thống nhị phân của người lớn để phân loại các cá nhân (ví dụ: phòng vệ sinh nam và phòng vệ sinh nữ, hay đội bóng nam và đội bóng nữ) đã gây nên những định kiến về giới.[16]

Theo như Thomas Keith trong Tính nam trong văn hóa nước Mỹ thời hiện đại (Masculinities in Contemporary American Culture), sự thừa nhận về văn hóa lâu dài rằng quy luật đối tính nam-nữ là "tự nhiên và bất biến" phần nào giải thích cho chế độ phụ quyền vững bền và chế độ nam quyền trong xã hội thời hiện đại.[17]